Bài báo này kiểm định mô hình định giá tài sản vốn (Capital Asset Pricing Model – CAPM) đối với 10 cổ phiếu được niêm yết tại Sở Giao Dịch Chứng Khoán (SGDCK) Thành Phố Hồ Chí Minh dựa trên số liệu về tỷ suất sinh lợi tháng giai đoạn từ tháng 01/2007 đến tháng 05/2013. Bên cạnh đó, mô hình CAPM cũng được kiểm định đối với danh mục đầu tư (DMĐT) được xây dựng từ các cổ phiếu nghiên cứu. Mô hình hồi quy đơn và phương pháp bình phương nhỏ nhất được áp dụng trong bài báo này. Trong trường hợp xuất hiện sự tự tương quan giữa các phần dư chỉ ra bởi kiểm định Durbin-Watson, hai quy trình Cochrane-Orutt và Hildreth-Lu được sử dụng để khắc phục vấn đề này. Kết quả thực nghiệm ủng hộ mô hình CAPM đối với các cổ phiếu nghiên cứu. Mức bù rủi ro thị trường và mức bù rủi ro của cổ phiếu có quan hệ tuyến tính và rủi ro càng cao thì tỷ suất sinh lợi càng cao. Đối với DMĐT, kết quả nhận được cũng tương tự. Tuy nhiên, kết quả cũng cho thấy rằng hệ số beta không giải thích được tốt mối quan hệ giữa tỷ suất sinh lợi và rủi ro hệ thống đối với các cổ phiếu trên SGDCK Thành phố Hồ Chí Minh do hệ số xác định nhận được tương đối thấp. Từ khóa : CAPM, hệ số beta, Sở Giao Dịch Chứng Khoán Thành Phố Hồ Chí Minh, tự tương quan, kiểm định Durbin-Watson, quy trình Cochrane-Orutt, quy trình Hildreth-Lu.
Hue University Journal of Science: Economics and Development
View Archive InfoField | Value | |
ISSN |
2588-1205 2588-1205 |
|
Authentication Code |
dc |
|
Personal Name |
Thị Bích Ngọc, Trần |
|
Summary, etc. |
Bài báo này kiểm định mô hình định giá tài sản vốn (Capital Asset Pricing Model – CAPM) đối với 10 cổ phiếu được niêm yết tại Sở Giao Dịch Chứng Khoán (SGDCK) Thành Phố Hồ Chí Minh dựa trên số liệu về tỷ suất sinh lợi tháng giai đoạn từ tháng 01/2007 đến tháng 05/2013. Bên cạnh đó, mô hình CAPM cũng được kiểm định đối với danh mục đầu tư (DMĐT) được xây dựng từ các cổ phiếu nghiên cứu. Mô hình hồi quy đơn và phương pháp bình phương nhỏ nhất được áp dụng trong bài báo này. Trong trường hợp xuất hiện sự tự tương quan giữa các phần dư chỉ ra bởi kiểm định Durbin-Watson, hai quy trình Cochrane-Orutt và Hildreth-Lu được sử dụng để khắc phục vấn đề này. Kết quả thực nghiệm ủng hộ mô hình CAPM đối với các cổ phiếu nghiên cứu. Mức bù rủi ro thị trường và mức bù rủi ro của cổ phiếu có quan hệ tuyến tính và rủi ro càng cao thì tỷ suất sinh lợi càng cao. Đối với DMĐT, kết quả nhận được cũng tương tự. Tuy nhiên, kết quả cũng cho thấy rằng hệ số beta không giải thích được tốt mối quan hệ giữa tỷ suất sinh lợi và rủi ro hệ thống đối với các cổ phiếu trên SGDCK Thành phố Hồ Chí Minh do hệ số xác định nhận được tương đối thấp.
Từ khóa : CAPM, hệ số beta, Sở Giao Dịch Chứng Khoán Thành Phố Hồ Chí Minh, tự tương quan, kiểm định Durbin-Watson, quy trình Cochrane-Orutt, quy trình Hildreth-Lu.
|
|
Publication, Distribution, Etc. |
Hue University |
|
Electronic Location and Access |
http://joshueuni.edu.vn/index.php/HUJOS-ED/article/view/3702 |
|
Data Source Entry |
Hue University Journal of Science: Economics and Development; Vol 101, No 2 (2015): CHUYÊN SAN KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN |
|
Language Note |
vie |
|
Terms Governing Use and Reproduction Note |
Copyright (c) 2016 |
|